Đang
truy
cập
:
9
Hôm
nay
:
129
Tháng
hiện
tại
:
8734
Tổng
lượt
truy
cập
:
2112673
Nguyễn
Văn
Vĩnh
là
người
có
biệt
tài
về
dịch
văn
chương
phương
Tây
sang
tiếng
Việt.
Ông
chịu
khó
tìm
trong
kho
thành
ngữ,
tục
ngữ
của
ta
những
câu
diễn
đạt
ý
tưởng
mới
của
Âu
Tây
khiến
văn
dịch
của
ông
tưởng
như
những
nguyên
tác
tiếng
Việt.
Ngay
năm
đầu
tiên
của
Đông
Dương
tạp
chí,
năm
1913,
Nguyễn
Văn
Vĩnh
đã
dịch
đăng
bài
thơ
ngụ
ngôn
của
La
Fontaine
“Con
Kiến
và
con
Ve
sầu”
và
nhanh
chóng
được
đông
đảo
bạn
đọc
yêu
thích.
Tuy
nhiên,
để
phổ
cập
chữ
Quốc
ngữ
thì
nhất
thiết
phải
chuyển
tải
được
vào
giáo
dục,
và
ở
đây
chúng
ta
không
thể
không
nhắc
đến
công
lao
GS.
Hoàng
Xuân
Hãn.
Ông
là
người
đặt
ra
danh
từ
khoa
học,
nhờ
đó
tiếng
Việt
có
thể
được
dùng
để
dạy
ở
bậc
trung
học
và
đặc
biệt
là
ở
đại
học.
Trước
đó
Gia
Định
báo
gặp
nhiều
khó
khăn
khi
diễn
đạt
các
thuật
ngữ
khoa
học:
“Mạch
nước
nóng,
nước
ngũ
kim”,
“nước
thán
khí”
chứ
chưa
gọi
là
nước
khoáng,
nước
có
gas.
Giản
dị
hóa,
đời
sống
hóa
chữ
Quốc
ngữ
-
dấu
ấn
báo
chí
Nam
bộ
Trong
lịch
sử
hình
thành
ngành
báo
ở
Việt
Nam,
báo
chí
xuất
hiện
ở
Nam
bộ
sớm
hơn
ở
Bắc
bộ
(những
tờ
báo
đầu
tiên
của
Việt
Nam
là
Gia
Định
báo
(GĐB,
1865)
ở
Nam
bộ,
tiếp
theo
là
Đông
Dương
tạp
chí
(ĐDTC,
1913),
và
Nam
Phong
tạp
chí
(1917)
ở
Bắc
bộ,
và
có
vai
trò
quan
trọng
trong
việc
giản
dị
hóa,
đời
sống
hóa
chữ
Quốc
ngữ,
dù
vai
trò
này
từng
có
lúc
chưa
được
các
học
giả
nhìn
nhận
đúng
mức.
Trong
khi
ở
Bắc
bộ
Nguyễn
Văn
Vĩnh
chủ
trương
ngôn
ngữ
báo
chí
là
thứ
ngôn
ngữ
gọt
giũa,
văn
chương
thì
Trương
Vĩnh
Ký,
ngay
từ
1869
đã
khuyến
khích
và
huấn
luyện
“các
thầy
thông
ngôn,
ký
lục,
giáo
tập”
làm
thông
tín
viên
báo
chí,
cung
cấp
bài
vở
cho
phần
“Tạp
vụ”
của
tờ
GĐB
dùng
một
thứ
ngôn
ngữ
phổ
thông
dễ
hiểu,
ngắn
gọn
dễ
đọc,
sao
cho
“tiếng
Việt
trơn
tru
như
lời
nói”.
Tuy
nhiên,
phương
tiện
giao
thông
chuyên
chở
báo
lúc
đó
chỉ
là
những
“xe
tờ”
ngựa
kéo.
Mãi
năm
1922
mới
có
xe
hơi
đi
từ
Sài
Gòn
đến
lục
tỉnh.
Bởi
vậy,
lúc
mới
ra
đời,
ảnh
hưởng
của
GĐB
nói
riêng
và
báo
chí
Nam
bộ
nói
chung
chưa
vượt
ra
khỏi
vùng
đất
Nam
bộ.
Điều
này
cũng
giải
thích
vì
sao
vai
trò
của
ĐDTC
và
NPTC
được
nhấn
mạnh
hơn.
Về
từ
ngữ,
đáng
chú
ý
nhất
là
GĐB
dùng
rất
ít
từ
Hán
–Việt.
Có
vậy
giới
bình
dân
Nam
bộ
còn
chưa
thông
thạo
chữ
Quốc
ngữ
mới
dễ
đọc,
dễ
hiểu.
Về
ngữ
pháp
và
phong
cách,
những
câu
viết
trên
báo
giống
như
những
lời
kể
chuyện
thật
tự
nhiên.
Không
thấy
những
câu
bị
động.
Văn
viết
(bút
ngữ)
trên
báo
rất
gần
với
lời
nói
(khẩu
ngữ).
Sự
việc
xảy
ra
thế
nào
thì
cứ
tuần
tự
hiện
ra
trong
ngôn
ngữ
như
thế,
khiến
trong
câu
có
nhiều
động
từ,
ít
danh
từ.
So
với
các
bản
tiếng
Pháp
tương
tự
thì
ít
giới
từ
hơn
hẳn.
Bên
cạnh
đó,
người
Nam
bộ
rất
sáng
tạo
khi
nhập
từ
nước
ngoài
vào
tiếng
Việt.
Trong
khi
người
Bắc
bộ
vay
mượn
chủ
yếu
theo
cách
phiên
âm
thì
người
Nam
bộ
thời
xưa
trong
nhiều
trường
hợp
đã
nhận
thức
bản
chất
của
sự
kiện
để
sáng
tạo
ra
những
từ
ngữ
mới.
Khi
chiếc
xe
đạp
đưa
vào
Việt
Nam,
tất
cả
các
bộ
phận
đều
chưa
có
từ
để
gọi,
ấy
thế
là
người
miền
Bắc
phải
mượn
các
từ
tiếng
Pháp
frein,
enveloppe,
chambre
à
air,
garde-boue,…
rồi
phiên
âm
ra
tiếng
Việt:
phanh,
lốp,
săm,
gác-đờ-bu
(mãi
sau
mới
chuyển
thành
cái
chắn
bùn)…
Nhưng
người
Nam
bộ
không
thế.
Họ
dùng
những
từ
có
sẵn
đặt
tên
cho
các
bộ
phận:
thắng,
vỏ,
ruột,
vè…
Biến
đổi
ngôn
ngữ
là
do
tự
thân
văn
hóa,
thẩm
mỹ
xã
hội
Tiếng
nói
một
dân
tộc
luôn
luôn
thay
đổi
ở
cả
3
mặt
ngữ
âm,
từ
vựng
và
ngữ
pháp,
nhanh
chậm,
nhiều
ít
khác
nhau
tùy
lúc
tùy
nơi.
Thay
đổi
về
ngữ
âm
rất
chậm,
hầu
như
không
thấy.
Thay
đổi
ngữ
pháp
diễn
ra
nhanh
hơn
nhưng
vẫn
rất
chậm
và
ít.
Biến
đổi
từ
vựng
thì
nhanh
hơn
và
thường
xuyên
hơn.
Tuy
nhiên,
mọi
sự
thay
đổi
luôn
xuất
phát
từ
những
nhu
cầu
nội
tại
của
con
người
và
xã
hội.
Từ
nhu
cầu
thực
tiễn
trong
sử
dụng
tiếng
Việt
người
ta
thường
tự
động
thêm
các
ký
tự
F,
J,
W,
Z
vào
bộ
chữ
cái
để
viết
các
từ
ngoại
lai
và
không
gặp
trở
ngại
gì,
và
cũng
chẳng
cần
tới
những
văn
bản
“pháp
quy”
đưa
4
ký
tự
trên
vào
bảng
chữ
cái
chữ
Quốc
ngữ.
Chữ
viết
là
quy
ước
nên
chuẩn
mực
chính
tả
cũng
là
quy
ước.
Chính
tả
do
con
người
đặt
ra.
Như
mọi
hệ
thống
chữ
viết
khác,
không
tránh
khỏi
một
số
bất
hợp
lý
trong
chữ
Quốc
ngữ.
Cho
nên,
đôi
lúc
đó
đây
lại
có
những
đề
nghị
“cải
tiến”
chữ
Quốc
ngữ
và
chính
tả.
Nhưng
một
khi
đưa
ra
những
quy
tắc
pháp
quy
không
hợp
lý
thì
người
ta
sẽ
“vượt
rào”.
Quy
định
chính
tả
cho
âm
vị
có
hai
cách
viết
i/y
rơi
vào
trường
hợp
này.
Ngày
30.11.1980
Bộ
Giáo
dục
ra
quy
định:
“…trường
hợp
các
âm
tiết
có
nguyên
âm
i
ở
cuối
thì
viết
thống
nhất
bằng
i
,
trừ
uy…”
Quy
định
trên
không
chú
ý
tới
một
quy
tắc
bất
thành
văn
về
tính
thẩm
mỹ
trong
chữ
Quốc
ngữ:
hình
chữ
phải
đẹp,
trong
đó
có
sự
cân
đối
về
độ
cao
giữa
các
con
chữ
khi
viết.
Cân
đối
nghĩa
là
ghép
những
phụ
âm
cùng
độ
cao
với
/i/
thì
có
khuynh
hướng
dùng
i:
Ví
dụ:
viết
vi
phạm,
vì
vậy,
vị
trí,
si
mê,
mị
dân
…
mà
không
viết
vy
phạm,
vỳ
vậy,
vỵ
trí,
sy
mê;
mỵ
dân.
Còn
khi
ghép
cùng
một
phụ
âm
có
phần
nhô
cao
lên
thì
ta
viết
y
nhằm
tạo
ra
sự
hài
hòa
trên
dưới.
Viết
lý
thì
phần
trên
và
phần
dưới
chữ
này
cân
đối
với
nhau,
còn
viết
lí
thì
phần
dưới
chữ
này
hơi
bị
hụt.
Trong
GĐB
và
Nông
Cổ
Mín
Đàm
(NCMĐ)
đều
viết
như
vậy:
chánh
lý,
có
lý
lắm,
ký
tên,
thơ
ký,
trong
kỳ
15
ngày,
xem
kỹ…
Kích
thước
con
chữ
cũng
là
một
lý
do
thẩm
mỹ,
theo
xu
hướng
hình
thức
phản
ánh
nội
dung:
Chữ
i
có
kích
thước
ngắn
hơn
chữ
y,
tạo
ra
ấn
tượng
là
một
đối
tượng
nhỏ.
Vậy
nên
có
khuynh
hướng
dùng
i
ngắn
cho
những
đối
tượng
tạo
ra
ý
niệm
nhỏ:
li
ti,
tỉ
mỉ,
vi
tính,
chi
li,
chi
tiết,
chơi
bi,
sân
si,
lí
nhí
…
Hình
như
không
ai
viết
chơi
by,
tỷ
mỷ;
chy
ly,
chy
tiết,
vy
tính…
Phức
tạp
hóa,
“quan
cách
hóa”
tiếng
Việt
và
những
hệ
lụy
Trong
truyện
ngắn
Đôi
mắt
của
Nam
Cao
có
tình
tiết
một
anh
dân
quân
đánh
vần
chưa
thạo
chữ
Quốc
ngữ
nhưng
đã
nói
thuộc
lòng
một
bài
3
giai
đoạn
kháng
chiến
phòng
ngự,
cầm
cự,
tổng
phản
công
…
‘dài
đến
năm
trang
giấy’
với
những
cụm
từ
còn
khá
xa
lạ
với
ngôn
ngữ
thời
ấy
như
“đề
nghị,
yêu
cầu,
phê
bình,
cảnh
cáo,
thực
dân,
phát
xít,
phản
động,
dân
chủ
với
cả
tân
dân
chủ”
(trích
Đôi
mắt,
1948).
Câu
chuyện
của
nhà
văn
có
thể
phần
nào
hư
cấu,
nhưng
đã
phản
ánh
một
thực
tế
là
từ
cách
đây
gần
65
năm
đã
xuất
hiện
trên
cửa
miệng
người
dân
bình
thường
những
khái
niệm
cao
xa
theo
đúng
đường
lối,
theo
chỉ
thị,
nghị
quyết,
dù
có
lẽ
không
phải
ai
cũng
hiểu
hết
ý
nghĩa.
Xu
hướng
ấy
tiếp
tục
kéo
dài
sáu
bảy
thập
kỷ
tiếp
theo,
một
khoảng
thời
gian
đủ
dài
để
tạo
ra
hai
thế
hệ
với
thói
quen
ngôn
từ
nói
năng
đúng
giáo
điều
dù
chưa
chắc
đã
hiểu
thấu
đáo.
Điều
này
dẫn
tới
hệ
lụy
là
xã
hội
hình
thành
thói
quen
chấp
nhận,
tư
duy
thụ
động,
không
muốn
lật
lại
nghĩa
lý
của
từ
ngữ,
câu
chữ,
khái
niệm
và
lập
luận
khi
tiếp
nhận
văn
bản.
Vả
lại,
nếu
ai
đó
có
suy
nghĩ
độc
lập,
muốn
phản
biện,
muốn
bình
luận
sẽ
tạo
ra
những
lời
nghịch
nhĩ
và
trở
thành
“người
có
vấn
đề”.
Hậu
quả
là
người
ta
lo
nói
năng
an
toàn,
cầm
giấy
phát
biểu
theo
những
giáo
điều,
dần
dần
hình
thành
thói
quen
kết
luận
mà
không
chú
ý
tới
lý
lẽ
thuyết
phục,
khiến
nhiều
người
nghèo
đi
về
ngôn
từ
và
tư
duy.
Thế
nhưng
người
ta
vẫn
có
nhu
cầu
thể
hiện
mình
qua
ngôn
ngữ.
Vậy
là
sinh
ra
lối
nói
những
câu
hùng
hồn
dài
dòng
rỗng
nghĩa.
Người
nói
cố
tỏ
ra
sang
trọng
với
nhiều
từ
Hán-Việt
dù
không
hiểu
thật
thấu
đáo.
Một
thói
quen
quan
cách,
sẵn
sàng
lặp
lại
những
điều
đã
biết,
đã
từng
nói.
Biến
tướng
của
lối
nói
dư
thừa
là
lối
nói
“chuẩn”
nhưng
không
có
trích
dẫn.
Trải
qua
nhiều
cuộc
học
tập
nghị
quyết,
rèn
luyện
lập
trường
quan
điểm,
nâng
cao
ý
thức
chính
trị,
trong
một
số
người
đã
hình
thành
thói
quen
tư
duy
thụ
động
và
“nghệ
thuật”
nói
năng
an
toàn:
quan
trọng
nhất
là
phát
biểu
theo
đúng
quan
điểm,
đường
lối
mà
không
cần
trích
dẫn
trực
tiếp
xuất
xứ,
vốn
là
điều
tối
kỵ
với
những
người
làm
khoa
học.
Vũ
Ngọc
Phan,
đã
bình
luận
về
Nông
Cổ
Mín
Đàm
và
Đại
Việt
Tân
Báo
như
sau:
“là
những
báo
chí
không
có
tính
cách
văn
học,
chỉ
đăng
rặt
những
tin
vặt,
những
thông
cáo
của
Chính
phủ,
những
bài
diễn
văn
của
người
đương
thời…”
(Nhà
văn
hiện
đại,
quyển
nhất,
NXB
Vĩnh
Thịnh,
Hà
Nội,
1951).
Những
tài
liệu
nghiên
cứu
văn
học
sử
và
báo
chí
sau
đó
đã
theo
ý
kiến
này
mà
cho
rằng
Đông
Dương
tạp
chí,
Nam
Phong
tạp
chí
mới
là
hai
tờ
báo
đầu
tiên
góp
phần
xây
dựng
nền
văn
học
hiện
đại. |
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn