Đang
truy
cập
:
7
Hôm
nay
:
94
Tháng
hiện
tại
:
8699
Tổng
lượt
truy
cập
:
2112638
Nền
kinh
tế
tri
thức1,
theo
Ngân
hàng
thế
giới
“là
nền
kinh
tế
sử
dụng
hiệu
quả
tri
thức
cho
sự
phát
triển
kinh
tế
và
xã
hội,
bao
gồm
việc
thu
nhận
và
khai
thác
nguồn
tri
thức
toàn
cầu
cũng
như
thích
ứng
và
sáng
tạo
tri
thức
để
dùng
cho
các
nhu
cầu
riêng”;
còn
theo
Tổ
chức
OECD,
nền
kinh
tế
tri
thức
“Là
nền
kinh
tế
dựa
trực
tiếp
vào
việc
tạo
ra,
phân
phối
và
sử
dụng
tri
thức
và
thông
tin.”
(Tổ
chức
Hợp
tác
và
Phát
triển
Kinh
tế,
OECD).
Các
cách
hiểu
trên
có
thể
dẫn
đến
một
kết
luận
rằng
muốn
xây
dựng
một
nền
kinh
tế
tri
thức
thì
cần
phải
có
nhiều
tri
thức,
nhiều
người
sáng
tạo,
sở
hữu
và
truyền
bá
tri
thức,
hoặc
đơn
giản
phải
có
nhiều
người
lao
động
trí
óc,
trong
đó
có
nhiều
nhà
trí
thức2.
Tích
và
tản
tri
thức
Chắc
chắn
rằng
không
phải
chờ
đến
khi
hình
thành
nền
kinh
tế
tri
thức
thì
các
nhà
trí
thức
mới
có
vai
trò
phục
vụ
cho
sự
phát
triển
và
tiến
bộ
của
xã
hội.
Ngay
trong
lịch
sử
nước
ta,
từ
xa
xưa
đã
có
những
nhà
trí
thức
đóng
vai
trò
vô
cùng
quan
trọng
trong
xây
dựng
và
bảo
vệ
tổ
quốc.
Đơn
cử
ngay
như
Nguyễn
Trãi,
một
vị
anh
hùng
dân
tộc,
cũng
đồng
thời
là
một
nhà
trí
thức
sáng
ngời
nhân
cách.
Ông
sinh
trưởng
trong
một
gia
đình
khoa
bảng.
Ông
cùng
cha
thi
đỗ
tiến
sỹ
năm
đầu
triều
Hồ.
Khi
giặc
Minh
xâm
chiếm
nước
ta,
thành
Thăng
Long
thất
thủ,
Nguyễn
Trãi
lưu
lạc
trong
dân
gian
10
năm
trước
khi
vào
Lam
Sơn
tham
nhập
cuộc
khởi
nghĩa
của
Lê
Lợi.
Ông
được
Lê
Lợi
tin
dùng,
bày
mưu
tính
kế
trong
tổng
hành
dinh
đầu
não
của
cuộc
khởi
nghĩa.
Chiến
lược
của
ông
là
không
đánh
thành
mà
đánh
vào
lòng
người,
lấy
nhân
nghĩa
thắng
hung
tàn,
thu
phục
được
sự
đoàn
kết
nhất
trí
của
nhân
dân,
lung
lay
ý
chí
của
kẻ
thù,
đem
lại
cho
Lê
Lợi
hiệu
quả
sánh
ngang
trăm
vạn
hùng
binh.
Một
nhà
trí
thức
nổi
tiếng
khác
là
Đào
Duy
Từ,
lúc
nhỏ
cực
kỳ
thông
minh,
học
đâu
nhớ
đấy,
vô
cùng
sáng
dạ.
Nhưng
lớn
lên
ông
không
được
đi
thi
vì
vấn
đề
lý
lịch3.
Do
đó,
ông
bỏ
chúa
Trịnh
ở
Đàng
Ngoài
để
theo
chúa
Nguyễn,
trở
thành
người
bày
mưu
tính
kế
ở
cơ
quan
quyền
lực
cao
nhất
ở
Đàng
Trong.
Ông
được
chúa
Nguyễn
coi
là
Thầy.
Chiến
lũy
ở
Quảng
Bình
do
ông
chỉ
huy
xây
đắp
được
gọi
là
lũy
Thầy.
Nhờ
kế
sách
của
ông
mà
vương
quyền
họ
Nguyễn
đứng
vững
trước
những
cuộc
công
phá
liên
tục
của
chúa
Trịnh,
không
những
thế
còn
vươn
xa
về
phương
Nam,
làm
cho
nước
Việt
có
diện
mạo
hình
chữ
S
như
hiện
nay.
Như
vậy,
cuộc
đời
của
hai
nhà
trí
thức
Nguyễn
Trãi
và
Đào
Duy
Từ,
dưới
góc
nhìn
trí
thức,
đều
có
những
nét
tương
đồng.
Đó
là
họ
đều
tích
luỹ
đến
mức
cao
nhất
và
rộng
nhất
những
tri
thức
đương
thời,
cả
trong
sách
vở,
cả
trong
cuộc
sống
thực
tiễn.
Khi
tích
đã
đủ
họ
đều
tản
những
tri
thức
ấy
dưới
dạng
các
tư
tưởng
và
chiến
lược
từ
các
trung
tâm
quyền
lực
cao
nhất.
Xem
xét
hai
ví
dụ
trên
chúng
ta
thấy
người
trí
thức
chỉ
thành
hình
khi
có
đủ
hai
quá
trình:
- Quá
trình
thứ
nhất
-
Quá
trình
tích:
Một
nhà
trí
thức
cần
phải
tích
luỹ
tri
thức
liên
tục,
tích
lũy
trong
mọi
hoàn
cảnh,
trước
hết
phải
tích
lũy
thật
sâu
tri
thức
thuộc
một
lĩnh
vực
chuyên
biệt
nào
đó.
Khi
đã
đạt
đến
một
mức
nào
đó,
nhà
trí
thức
tương
lai
có
thể
thi
lấy
một
tấm
bằng
(tiến
sỹ
chẳng
hạn),
hoặc
chẳng
cần
mảnh
bằng
nào
hết.
Sau
khi
đã
tích
khá
khá,
anh
ta
dần
dần
phải
tìm
hiểu
đượccác
quy
luật
phổ
biến
và
vĩnh
hằng đang
chi
phối
cuộc
sống
nhân
loại
tại
thời
điểm
anh
ta
đang
sống.
Nhờ
việc
hiểu
rõ
một
số
quy
luật,
anh
ta
bắt
đầu
có
thể
mở
rộng
sự
hiểu
biết
của
mình
sang
các
lĩnh
vực
khác
ngoài
chuyên
môn.
Quá
trình
đào
sâu
và
mở
rộng
tri
thức
cũng
vẫn
là
quá
trình
tích
lũy,
những
ở
trình
độ
cao
hơn,
nhiều
sáng
tạo
hơn.
Quá
trình
này
đối
với
một
nhà
trí
thức
là
không
có
điểm
kết.
Anh
ta
không
được
phép
dừng
lại
sau
khi
đã
đạt
đến
một
học
vị,
một
bằng
cấp
nào
đó.
Nếu
dừng
lại
anh
ta
sẽ
được
gọi
là
một
vị
"cựu
trí
thức".
Nhưng
khác
với
với
các
"cựu
quan
chức",
các
"cựu
trí
thức"
có
thể
quay
lại
"sở
nhiệm"
của
mình
bất
cứ
lúc
nào,
chỉ
cần
anh
ta
khởi
động
lại
quá
trình
tích
luỹ.
Trong một cộng đồng cụ thể, khi có sự kết hợp hài hoà giữa hai trung tâm quyền lực và trí tuệ thì sẽ tạo nên một sức mạnh cực kỳ to lớn thúc đẩy sự phát triển của cả cộng đồng. |
- Quá
trình
thứ
hai
-
quá
trình
tản:
Một
trí
thức
phải
tản
kiến
thức
của
mình
đã
tích
luỹ
theo
nghĩa
đóng
góp
nhiều
hơn
và
tốt
hơn
cho
cuộc
sống
hiện
tại.
Nhiệm
vụ
của
anh
ta
không
đơn
thuần
là
nâng
cao
chất
lượng
cuộc
sống
của
cá
nhân,
gia
đình
và
dòng
họ,
mà
hơn
hết,
thước
đo
nhân
cách
của
nhà
trí
thức
là
anh
ta
có
nghĩa
vụ
mang
lại
hạnh
phúc
cho
một
cộng
đồng
xã
hội
to
lớn
hơn
cái
nhóm
nhỏ
được
tạo
nên
từ
gia
đình,
bạn
bè,
cạ
cụm,...
xung
quanh
anh
ta.
Ví
dụ,
các
nhà
phát
minh
sáng
chế,
họ
đã
tản
kiến
thức
thu
được
dưới
dạng
các
sản
phẩm
hữu
ích
(vật
thể
hoặc
phi
vật
thể)
để
tạo
ra
năng
suất
lao
động
cao
hơn,
biến
lao
động
trở
thành
niềm
vui
sáng
tạo,
chứ
không
phải
là
các
công
việc
khổ
sai.
Tuy
nhiên,
quá
trình
tản
của
trí
thức
có
nhiều
cấp
độ.
Cấp
độ
một
là
ở
bục
giảng,
trên
sàn
diễn
hay
trong
các
phòng
thí
nghiệm.
Ở
cấp
độ
này,
nhà
trí
thức
làm
việc
gần
giống
các
nhà
chuyên
môn.
Cấp
độ
hai
là
nhà
trí
thức
đã
thức
nhận
được
các
luật
vĩnh
hằng
và
phổ
quát.
Họ
có
thể
viết
sách
để
truyền
bá
các
tư
tưởng
ấy.
Sách
của
họ
có
thể
là
các
tác
phẩm
bằng
chữ,
bằng
hình
ảnh,
bằng
âm
thanh,
v.v.
Cấp
độ
ba
là
nhà
trí
thức
hoá
thân
thành
trung
tâm
trí
tuệ
để
tích
thu
tri
thức
cộng
đồng.
Nhà
trí
thức
lúc
đó
không
còn
là
một
cái
tôi
bé
nhỏ.
Họ
trở
thành
các
trung
tâm
trí
tuệ
không
ngừng
mở
rộng,
không
ngừng
thu
nạp
thêm
tri
thức
mới,
không
ngừng
toả
sáng
truyền
bá
hiểu
biết
đến
những
góc
khuất
của
cuộc
sống.
Khi
trí
thức
song
hành
hài
hòa
cùng
quyền
lực
Có
thể
tạm
hình
dung
sự
kết
hợp
giữa
quyền
lực
và
trí
thức
theo
nguyên
lý
âm-dương.
Trung
tâm
trí
tuệ
mang
đặc
tính
âm,
luôn
có
tiềm
năng
kết
hợp
một
cách
hài
hoà
với
trung
tâm
quyền
lực
mang
đặc
tính
dương.
Trong
một
cộng
đồng
cụ
thể,
khi
có
sự
kết
hợp
hài
hoà
giữa
hai
trung
tâm
quyền
lực
và
trí
tuệ
thì
sẽ
tạo
nên
một
sức
mạnh
cực
kỳ
to
lớn
thúc
đẩy
sự
phát
triển
của
cả
cộng
đồng.
Cái
may
của
Nguyễn
Trãi,
cũng
là
phúc
lớn
của
dân
tộc
Việt
nam
là
tài
năng
của
Ông
đã
lọt
vào
mắt
xanh
của
Lê
Lợi.
Sự
kết
hợp
ấy
được
thể
hiện
trong
câu
"Nguyễn
Trãi
vi
thần,
Lê
Lợi
vi
quân".
Sự
kết
hợp
hài
hòa
giữa
hai
trung
tâm,
Lê
Lợi-
trung
tâm
quyền
lực,
Nguyễn
Trãi
-
trung
tâm
trí
tuệ,
đã
tạo
nên
sức
mạnh
to
lớn,
đưa
đến
chiến
thắng
vang
dội
quét
sạch
giặc
Minh
khỏi
bờ
cõi,
làm
cho
nước
Việt
không
phải
làm
quận
huyện
của
nước
Tầu
một
lần
ngàn
năm
nữa.
Ở
tầm
mức
cao
nhất,
trí
thức
là
phần
âm,
giúp
bổ
khuyết
những
phần
còn
thiếu
của
quyền
lực
để
tạo
ra
sự
hài
hòa
âm
dương
của
sự
phát
triển.
Vì
vậy,
quyền
lực,
với
tư
cách
một
vương
quyền
hay
một
thể
chế,
không
nên
coi
trí
thức
là
kẻ
thù
để
đến
nỗi
phải
nêu
khẩu
hiệu
"đào
tận
gốc,
trốc
tận
rễ",
mà
ngược
lại
phải
coi
trí
thức
như
là
nỗi
khao
khát
tìm
kiếm
suốt
đời
của
mình.
Thiếu
sự
hỗ
trợ
của
tri
thức,
quyền
lực
có
thể
bị
tha
hóa,
biến
nhà
chính
trị
thành
kẻ
quái
dị
đáng
thương
vây
quanh
bởi
những
kẻ
xu
nịnh
rẻ
tiền.
Không
chỉ
ở
quy
mô
quốc
gia,
ở
những
quy
mô
hẹp
hơn,
đối
với
bất
cứ
cá
nhân,
tổ
chức
nào
mà
sự
kết
hợp
giữa
trí
tuệ
và
quyền
lực
không
hài
hoà
thì
đều
tất
yếu
dẫn
đến
sự
tan
rã,
suy
kiệt
và
sụp
đổ.
Tri
thức
thúc
đẩy
tiến
bộ
như
thế
nào?
Nhìn
lại
quá
trình
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
nhất
của
nhân
loại,
chúng
ta
thấy
rằng
đây
là
thời
điểm
loài
người
chuyển
từ
kinh
tế
săn
bắn
hái
lượm
sang
kinh
tế
nuôi
trồng.
Lúc
đó,
loài
người
đã
tích
lũy
được
một
khối
lượng
tri
thức
rất
lớn
về
vật
nuôi,
cây
trồng,
về
giống
cây,
giống
con,
về
thời
tiết,
phân
tro,
về
sâu
bệnh,
dinh
dưỡng,
về
chế
biến,
bảo
quản,...
Rõ
ràng
rằng
lúc
đó
các
bộ
lạc
còn
sống
bấp
bênh
nhờ
hái
lượm
đã
từng
thèm
khát
và
khâm
phục
gọi
các
bộ
lạc
có
nền
kinh
tế
nuôi
trồng
là
các
nền
kinh
tế
uyên
bác.
Thực
vậy
họ
gọi
những
người
nuôi
trồng
là
những
kẻ
"cultiver"
(những
người
có
văn
hoá).
Sự
khâm
phục
ấy
đã
biến
đổi
động
từ
"trồng
trọt"
thành
danh
từ
"văn
hóa".
Tại
thời
điểm
đó,
khối
lượng
tri
thức
của
nhân
loại
đã
tăng
lên
một
cách
đột
biến.
Quá
trình
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
nhất
này
dẫn
đến
sự
hình
thành
nhiều
trung
tâm
văn
minh
nhân
loại
từ
Ai
Cập,
Lưỡng
Hà,
đến
Ấn
Độ,
Trung
Hoa,
v.v.
Lịch
sử
lại
thêm
một
lần
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
hai,
mới
chỉ
xảy
ra
cách
đây
vài
trăm
năm,
là
quá
trình
thay
thế
sức
sản
xuất
từ
cơ
bắp
sang
sức
máy.
Lúc
đó,
công
suất
của
những
cỗ
máy
hơi
nước,
của
các
động
cơ
điện
thường
hay
được
so
sánh
với
sức
ngựa
kéo
(HP
hay
CV).
Cách
so
sánh
này
vẫn
được
ghi
trên
nhãn
mác
của
những
cỗ
máy
hiện
đại
nhất
tại
thế
kỷ
21
này.
Tại
lần
chuyển
đổi
thứ
hai
này,
tri
thức
của
loài
người
về
các
quá
trình
lý
hoá,
cơ
điện,
nhiệt
động,
kết
cấu,
lắp
ghép,
v.v,
cũng
tăng
lên
đột
biến.
Quá
trình
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
hai
gắn
liền
với
sự
lớn
mạnh
của
chủ
nghĩa
tư
bản,
sự
bành
trướng
toàn
cầu
của
chủ
nghĩa
thực
dân.
Hiện
nay,
chúng
ta
bắt
đầu
đi
vào
quá
trình
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
ba,
có
bản
chất
là
sự
tối
ưu
hóa
sản
suất
bằng
các
con
chíp
điện
tử.
Trong
công
cuộc
chuyển
đổi
này,
mọi
hoạt
động
sản
xuất,
văn
hóa,
thể
thao,
khoa
học,
công
nghệ,
văn
học,
nghệ
thuật,
v.v,
đều
thấp
thoáng
bóng
dáng
sự
hỗ
trợ
của
các
con
chíp
điện
tử.
Tốc
độ
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
lần
thứ
ba
rất
nhanh,
phạm
vi
rất
rộng,
không
trừ
một
góc
khuất
nào
trên
khắp
hoàn
cầu.
Nhiều
hiện
tượng
mới,
cả
tích
cực
và
tiêu
cực
đều
đồng
thời
diễn
ra.
Hơn
nữa,
nhận
thức
của
chúng
ta
về
quá
trình
chuyển
đổi
mày
có
lẽ
đã,
đang
và
sẽ
còn
rất
nhiều
khiếm
khuyết.
Bởi
vì,
đơn
giản
là
chúng
ta
đang
sống
trong
chính
quá
trình
chuyển
đổi
đó.
Đứng
bên
cạnh
con
voi
đã
rất
khó
khăn
để
mô
tả
về
Con
voi,
thế
thì
đứng
trong
bụng
con
voi
lại
càng
khó
nói
về
nó
hơn.
Cái
gọi
là
"nền
kinh
tế
tri
thức",
thực
chất
chính
là
một
cuộc
chuyển
đổi
lớn
lao,
mạnh
mẽ
và
vô
cùng
dồn
dập
về
phương
thức
sản
xuất,
trong
đó
hiểu
biết
của
loài
người
về
mọi
phương
diện
đang
tăng
lên
theo
cấp
số
nhân
giống
như
hai
lần
chuyển
đổi
trước
đây.
Nguy
cơ
tụt
hậu
Nhìn
lại
lịch
sử,
chúng
ta
thấy
rằng
trong
lần
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
thứ
nhất,
những
bộ
lạc
khư
khư
giữ
phương
thức
hái
lượm
nhanh
chóng
bị
thôn
tính
và
xoá
sổ,
mất
đất,
mất
tên.
Tương
tự
như
vậy,
tới
lần
chuyển
đổi
thứ
hai,
nhiều
quốc
gia
chậm
tiến
đã
bị
các
nước
phát
triển
hơn
thôn
tính
làm
thuộc
địa.
Nhật
Bản
là
một
trong
những
dân
tộc
hiếm
hoi,
do
đã
nhanh
chóng
tăng
cường
tri
thức
về
máy
móc,
nên
mới
thoát
hiểm
không
bị
nhấn
chìm
bởi
làn
sóng
thuộc
địa
hoá.
Nếu như người lãnh đạo các nước này nhận thức sai về nền kinh tế trí thức, nếu họ chỉ ưa các mỹ từ, không nhìn sâu vào quá trình chuyển đổi, không biết ứng dụng nguyên lý lớn (nguyên lý tích tản) để mổ xẻ các vấn đề thời cuộc, nhất định họ đã và sẽ còn chìm lâu trong sự trì trệ. |
Điều
này
dẫn
đến
một
suy
đoán
là,
trong
lần
chuyển
đổi
phương
thức
sản
xuất
thứ
ba
này
vốn
đang
diễn
ra
với
tốc
độ
vô
cùng
khẩn
trương,
các
dân
tộc
và
quốc
gia
không
nỗ
lực
thay
đổi,
thích
nghi,
thì
tất
yếu
bị
tụt
hậu
xa
hơn.
Nếu
như
người
lãnh
đạo
các
nước
này
nhận
thức
sai
về
nền
kinh
tế
trí
thức,
nếu
họ
chỉ
ưa
các
mỹ
từ,
không
nhìn
sâu
vào
quá
trình
chuyển
đổi,
không
biết
ứng
dụng
nguyên
lý
lớn
(nguyên
lý
tích
tản)
để
mổ
xẻ
các
vấn
đề
thời
cuộc,
nhất
định
họ
đã
và
sẽ
còn
chìm
lâu
trong
sự
trì
trệ.
Vậy
vấn
đề
thời
cuộc
lớn
nhất
hiện
nay
là
gì?
Đó
chính
là
vấn
đề
nhận
thức
cho
đúng
hạt
nhân
phát
triển,
bao
gồm
quyền
lực
(Power
–
P)
và
trí
tuệ
(Intellectual
–
I),
hay
có
thể
gọi
là
hạt
nhân
(P,I).
Nhận
thức
về
hạt
nhân
(P,I)
cho
phép
chúng
ta
từ
bỏ
cách
xài
cụm
từ
"sử
dụng
chất
xám".
Chất
xám
với
tư
cách
là
một
con
người
không
thể
bị
sử
dụng
thông
qua
một
hợp
đồng
lao
động
với
đồng
lương
rẻ
mạt.
Quan
niệm
như
vậy
sẽ
giết
chết
sự
sáng
tạo.
Chất
xám,
hay
nhà
trí
thức,
phải
được
trân
trọng
ở
tầm
mức
cao
nhất.
Bất
cứ
một
tổ
chức
hay
cá
nhân
nào
tạo
ra
được
một
hạt
nhân
(P,I)
đều
có
thể
xác
lập
một
cơ
hội
phát
triển
mạnh
mẽ.
Hạt
nhân
(P,I)
luôn
luôn
có
trách
nhiệm,
và
về
nguyên
lý
nhất
định
phải
lãnh
trách
nhiệm,
trong
việc
tìm
ra
cách
thức
mới
để
sáng
tạo
ra
sản
phẩm
phục
vụ
cuộc
sống
theo
cách
tốt
đẹp
hơn,
nhân
văn
hơn.
Cũng
là
sản
phẩm
lúa
gạo,
nhưng
trong
nền
kinh
tế
tri
thức
một
tổ
chức
có
hạt
nhân
(P,I)
sẽ
sản
xuất
ra
lúa
gạo
với
năng
suất
cao
hơn,
hiệu
quả
hơn,
hủy
hoại
môi
trường
ít
hơn.
Ngược
lại,
một
tổ
chức
độc
quyền
không
có
hạt
nhân
(P,I),
sẽ
sản
xuất
xăng
dầu,
xi
măng,
điện
năng,
gỗ
giấy,
v.v,
với
chi
phí
ngày
càng
tăng,
làm
cạn
kiệt
tài
nguyên,
và
hủy
hoại
môi
trường
ngày
càng
nhiều.
Cuối
cùng,
chúng
tôi
đề
xuất
một
định
nghĩa: "Nền
kinh
tế
tri
thức"
là
nền
kinh
tế
sản
xuất
ra
những
sản
phẩm
phục
vụ
cho
cuộc
sống
con
người
bằng
các
qui
trình
ngày
càng
trí
tuệ
hơn,
nhờ
vào
việc
nền
kinh
tế
ấy
đang
xây
dựng
và
mở
rộng
ngày
càng
nhiều
các
hạt
nhân
phát
triển
(P,I). Ngược
lại,
những
quốc
gia
hoặc
khu
vực
nào
chưa
có
ý
thức
tạo
dựng
các
hạt
nhân
phát
triển
(P,I)
thì
nhất
quyết
chưa
thể
xếp
vào
hạng
các
nền
kinh
tế
tri
thức.
---
1.
Tri
thức:
Những
hiểu
biết
mà
người
ta
phải
học
mới
có,
học
cả
trong
sách
vở
lẫn
trong
thực
tế.
Tri
thức
giúp
một
con
người
hoặc
một
cộng
đồng
hành
động
đúng
trong
một
bối
cảnh
nào
đó.
Khi
bối
cảnh
thay
đổi
tri
thức
ấy
cũng
thay
đổi
theo.
Vậy
tri
thức
la
các
luật
nhỏ
(local
laws).
2.
Trí
thức
là
người
thức
nhận
được
các
luật
lớn
(permanent
and
universal
laws)
bằng
một
trong
hai
cách:
-
Cách
tuần
tự:
học
tập
dần
dần
để
tích
lũy
các
luật
nhỏ
-
Cách
đốn
ngộ:
suy
ngẫm
để
đi
đến
việc
xé
bỏ
màng
vô
minh
Nói
chung
trí
thức
là
người
thức
tỉnh
khỏi
vô
minh
nhờ
rèn
luyện
tâm
trí.
Rất
nhiều
người
có
bằng
cấp
cao
nhưng
chưa
thức
tỉnh
thì
chưa
là
trí
thức.
Họ
đang
trên
đường
đi
đến.
Nhưng
có
thể
vì
tâm
hẹp
hòi,
u
xám,
mà
họ
ngày
càng
rời
xa
quá
trình
thức
tỉnh.
3.
Cha
mẹ
Đào
Duy
Từ
làm
nghề
ca
xướng,
thành
ra
theo
quy
định
của
chế
độ
cũ
ông
không
được
đi
thi.
Những tin mới hơn
Những tin cũ hơn